Tháo gỡ nút thắt cho các doanh nghiệp điện tử để tận dụng lợi thế của việc chuyển dịch chuỗi cung ứng
Tiến bộ vượt bậc
Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, xung đột giữa Nga và Ukraine, đã khiến giá nhiên liệu và nguyên liệu toàn cầu tăng cao, chuỗi cung ứng sản xuất linh kiện bị gián đoạn.
Tuy nhiên, ngành điện tử cũng có những điểm sáng khi được hưởng lợi từ xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng, các hãng lớn đã và đang chuyển các nhà máy, chuỗi sản xuất từ Trung Quốc sang các nước xung quanh, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam đã và đang thu hút một số trung tâm R&D của nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới. Samsung Hàn Quốc hiện có 6 nhà máy, trong vòng 16 năm từ 2006 đến 2022 đã tăng vốn đầu tư từ 650 triệu USD lên 17,7 tỷ USD, gấp 17 lần với 110.000 lao động đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp lớn nhất. tại Việt Nam: Tỷ lệ nội địa hóa của Samsung tại Việt Nam hiện là 59%. Số lượng doanh nghiệp Việt Nam là nhà cung cấp cấp 1 tăng từ 4 vào năm 2014 lên 50 vào cuối năm 2020 và cấp 2 tăng từ 157 vào năm 2018 lên 200 vào năm 2020.
GS.TSKH Nguyễn Mại
Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện đạt 57,54 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2020; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện điện tử đạt 50,83 tỷ USD, bằng 14,1% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, xuất khẩu điện thoại và linh kiện sang thị trường Trung Quốc đạt 15,18% tỷ USD, tăng 23%, sang thị trường Hoa Kỳ trị giá 9,69 tỷ USD, tăng 10,3%; sang EU (27 nước) đạt 7,89 tỷ USD, giảm 9,1% so với năm trước.
Cũng trong năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong nhập khẩu linh kiện, phụ kiện từ Trung Quốc nhưng nhờ cân đối hợp lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các địa phương trên cả nước để thực hiện Nghị quyết 128 / NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về an toàn, thích ứng linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, ngành điện tử vẫn tăng trưởng khá cả về chỉ số sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu. xuất khẩu.
Theo đó, chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học nói chung tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2020. Sản lượng điện thoại di động đạt 233,7 triệu chiếc, tăng 7,6%; sản lượng tivi đạt 11.165,7 nghìn chiếc, giảm 38,6%; sản lượng linh kiện điện thoại đạt 408,8 nghìn tỷ đồng, tăng 29,5% so với cùng kỳ năm 2020.
Làm rõ hơn thực trạng trên, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) Phạm Tuấn Anh thông tin, ngành điện tử Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là lĩnh vực điện tử. giai đoạn 2016 – 2020.
Các doanh nghiệp điện tử đang hoạt động tại Việt Nam hiện đã sản xuất hầu hết các sản phẩm điện tử thiết yếu như điều hòa, ti vi, máy giặt, điện thoại, máy in,… đáp ứng cơ bản hầu hết nhu cầu. trong nước và xuất khẩu sang một số nước.
“Sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam chủ yếu nhờ thu hút đầu tư lớn từ các tập đoàn đa quốc gia, đặc biệt là các tập đoàn đến từ Hàn Quốc (Samsung Electronics), Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc). ) trong lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử ”- ông Tuấn Anh nói.
Vẫn đang ở giai đoạn lắp ráp
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2016 – 2020, nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện tăng trưởng bình quân 23,8%. Kết quả này đã đưa Việt Nam từ vị trí 47 năm 2001 lên vị trí thứ 12 thế giới và đứng thứ 3 ASEAN về xuất khẩu hàng điện tử, nhưng có tới 95% kim ngạch xuất khẩu thuộc về doanh nghiệp có vốn đầu tư. nước ngoài (FDI).
Hiện ngành công nghiệp điện tử Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn lắp ráp trong chuỗi sản xuất sản phẩm điện tử; Tỷ lệ nội địa hóa của ngành điện tử còn thấp và chỉ cung cấp các sản phẩm đơn giản, hàm lượng công nghệ thấp.
Các doanh nghiệp trong nước cần tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Để làm được điều đó, bản thân doanh nghiệp Việt Nam phải mạnh hơn, hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ và đủ sức bắt tay với các tập đoàn công nghệ quốc tế.
GS.TSKH Nguyễn Mại – Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cho rằng, cơ hội rất lớn, triển vọng khả quan, vấn đề cốt lõi để biến cơ hội, triển vọng thành hiện thực cần đề ra giải pháp. triển khai đồng bộ, quyết liệt nhằm khắc phục cơ bản những điểm nghẽn mà các nhà đầu tư, doanh nghiệp đang gặp phải.
Muốn vậy, cần đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế, pháp luật, chống mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật; lưu ý 3 cam kết quan trọng của Việt Nam với thế giới về giảm phát thải khí nhà kính với COP26, thực hiện quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu là 15% và tăng trưởng xanh, bền vững và có trách nhiệm với xã hội trong sản xuất kinh doanh. việc kinh doanh.
“Ban hành các chính sách ưu đãi hợp lý để khuyến khích các tập đoàn kinh tế FDI liên kết chuỗi với doanh nghiệp Việt Nam, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ về tài chính, tín dụng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng quản lý, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao đáp ứng yêu cầu của FDI doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ… ”- GS.TSKH Nguyễn Mại chỉ rõ.
Cơ hội đột phá
Cùng chung quan điểm, Phó Giám đốc Sở Công nghiệp Phạm Tuấn Anh khẳng định, sau những diễn biến của đại dịch Covid-19, ngành điện tử Việt Nam đang đứng trước cơ hội đón làn sóng chuyển đổi đầu tư, tái cơ cấu chuỗi giá trị. lần tới.
“Chất lượng nhà xưởng là một trong những yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là khi các tiêu chuẩn quản lý, xuất nhập khẩu hàng hóa từ các nhà đầu tư ngày càng cao. Các doanh nghiệp điện tử cần lưu ý để hạn chế các rào cản khi tham gia chuỗi” – Phó Tổng Giám đốc Đổi mới, Sáng tạo và Phát triển Kinh doanh NS BlueScope Việt Nam Lâm Tố Trinh cho biết.
Theo đó, với việc kiểm soát dịch bệnh hiệu quả và duy trì ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, Việt Nam vẫn được coi là điểm đến đầu tư an toàn, tiềm năng và hấp dẫn trong chính sách đa dạng hóa chuỗi cung ứng. sản xuất toàn cầu của các nhà đầu tư.
Đặc biệt là cơ hội đón đầu nguồn vốn đầu tư thế hệ mới và nguồn vốn để tái định vị sản xuất, đa dạng hóa nguồn cung của các nước đối tác lớn và các tập đoàn đa quốc gia. Công nghiệp điện tử là một trong những ngành hứa hẹn nhận được sự chuyển đổi đầu tư.
Bên cạnh đó, vị thế quốc tế của Việt Nam đang được nâng cao cùng với các hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiếp tục tin cậy lẫn nhau đã làm tăng sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam.
Đồng thời, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam ngày càng thông thoáng, thuận lợi; Lợi thế về nguồn nhân lực và thị trường trong nước với gần 100 triệu dân tạo nên một thị trường có sức mua lớn.
Doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc các tập đoàn lớn đang có kế hoạch chuyển dịch hoặc tái cấu trúc chuỗi sản xuất theo hướng “Trung Quốc +1” mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng mới của thế giới.
Ngoài ra, Việt Nam đã có hàng loạt chính sách phát triển ngành điện tử bằng các luật, nghị định, nghị quyết. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật, chính sách đối với ngành điện tử chưa có những ưu đãi, đột phá để thúc đẩy phát triển tương xứng với tiềm năng.
Phó Giám đốc Sở khẳng định, để phát triển công nghiệp điện tử trong thời gian tới cần chú trọng phát triển hài hòa cả phần cứng và phần mềm, tạo nền tảng cho đổi mới sáng tạo; hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp trong lĩnh vực điện tử; xây dựng kế hoạch hình thành ngành công nghiệp điện tử có giá trị gia tăng cao.