Tăng cơ hội tiếp cận tín dụng cho các hộ kinh doanh
Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ đã ban hành một số chính sách hỗ trợ nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho hộ kinh doanh nhưng khả năng tiếp cận tín dụng của họ vẫn còn hạn chế do chưa đủ khả năng tiếp cận tín dụng. đủ tài sản thế chấp, phương án kinh doanh kém hiệu quả, chậm tiếp cận công nghệ. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự vận hành và phát triển của loại hình kinh tế này. Vì vậy, để tiếp tục khuyến khích hộ kinh doanh mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế, cần có chính sách tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho nhóm đối tượng này. lần tới.
Theo đánh giá của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), với tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn bình quân từ gần 89% đến khoảng 93% trong giai đoạn 2007-2014, hộ kinh doanh cá thể được thành lập và hoạt động là chủ yếu. về khả năng tài chính của bản thân, không sử dụng nhiều nguồn tài chính từ bên ngoài. Với nguồn vốn tự có hạn chế, khó tiếp cận với nguồn tài chính bên ngoài, khả năng tham gia vào lĩnh vực sản xuất, ngành nghề đòi hỏi công nghệ tiên tiến của hộ kinh doanh còn rất hạn chế. Phần lớn các hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ truyền thống như: dịch vụ thương mại, dịch vụ cá nhân và cộng đồng.
Cần có chính sách tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng cho các hộ kinh doanh để mở rộng quy mô sản xuất |
Theo Tổng cục Thống kê, số hộ được vay tín dụng chính thức còn thấp, chỉ khoảng 28% tổng số hộ. Điều này cho thấy các hộ gia đình phải tìm đến các nguồn vốn từ khu vực bán chính thức và phi chính thức. Tuy nhiên, nguồn vốn bán chính thức từ quỹ hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên … không nhiều và không sử dụng được lâu dài. Nguyên nhân của vấn đề này là do tín dụng bán chính thức có số vốn nhỏ, vốn phải được sử dụng cho các nhu cầu thường xuyên như hoạt động của các hiệp hội, hoặc phần thưởng. Vì vậy, với những người thiếu vốn thì phải dùng từ tín dụng phi chính thức. Nguồn vốn này đối với các hộ kinh doanh cá thể chủ yếu đến từ một số nguồn như vốn vay của các cá nhân trên thị trường, vốn vay của các tiệm cầm đồ với lãi suất cao (tín dụng đen), vốn vay từ các quỹ phi lợi nhuận. chính thức ở dạng họ / hui.
Với đặc điểm cơ cấu vốn và nguồn vốn vay của hộ kinh doanh như hiện nay, hộ kinh doanh khó mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh vì khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và khả năng tiếp cận tín dụng còn hạn chế. Mức độ rủi ro khi tiếp cận tín dụng phi chính thức là rất cao.
Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ nhóm hộ kinh doanh chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp nhưng kết quả vẫn chưa được như mong muốn. Do hạn chế về quy mô, phạm vi hoạt động kinh doanh và không có pháp nhân nên các hộ kinh doanh bị hạn chế hơn trong việc vay vốn ngân hàng và hỗ trợ vốn từ các hiệp hội ngành hàng. Hiện nay, hầu hết các chính sách hỗ trợ về vốn và công nghệ của Chính phủ đều dành cho khối doanh nghiệp.
Vì vậy, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh khuyến nghị trong thời gian tới, Chính phủ cần mở rộng chính sách hỗ trợ cho đối tượng này, đặc biệt là tăng cường chính sách hỗ trợ tiếp cận vốn từ ngân hàng và ngân hàng. các tổ chức tín dụng khuyến khích phát triển, hỗ trợ khó khăn cho hộ kinh doanh trong bối cảnh mới, xúc tiến và hoàn thiện các điều kiện khuyến khích, thúc đẩy thành lập doanh nghiệp kinh doanh.
Một bất cập hiện nay là việc huy động vốn từ các tổ chức tín dụng đối với hộ kinh doanh rất khó khăn do đặc thù của mô hình kinh doanh này. Do hộ kinh doanh không độc lập với chủ sở hữu, chủ hộ vay vốn tại các tổ chức tín dụng với tư cách cá nhân nên hạn mức vay thấp và thời hạn vay cũng rất ngắn. nhu cầu mở rộng kinh doanh hoặc đổi mới công nghệ đồng bộ, hiệu quả … dẫn đến hiệu quả kinh doanh của mô hình này không cao, không có xu hướng mở rộng quy mô để chuyển thành doanh nghiệp, từ đó được hưởng các điều kiện thuận lợi, ưu đãi của Nhà nước, như cơ hội phát triển thành doanh nghiệp.
Để giải quyết những vướng mắc này, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh khuyến nghị cần có chính sách thấu đáo, quy định, chính sách rõ ràng để thúc đẩy và hỗ trợ các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
Theo đó, trước hết cần mở rộng quy mô và đối tượng được hỗ trợ tiếp cận tín dụng. Hiện nay, các chính sách hỗ trợ tín dụng cho hộ kinh doanh mới chỉ tập trung vào một số đối tượng đặc biệt hoặc một lĩnh vực cụ thể nên đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số. số hộ kinh doanh đang hoạt động trong nền kinh tế. Tuy nhiên, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiếp cận tín dụng là vấn đề chung và nhu cầu tiếp cận vốn hỗ trợ từ Chính phủ là rất lớn, đến từ phần lớn các hộ kinh doanh. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần nghiên cứu, bổ sung các chương trình, chính sách hỗ trợ tiếp cận tín dụng theo hướng mở rộng quy mô, đối tượng thụ hưởng đảm bảo phù hợp với nhu cầu thực tiễn, đáp ứng nhu cầu thực tiễn và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. đáp ứng kịp thời nhu cầu của các đối tượng, đồng thời góp phần hạn chế, đẩy lùi “tín dụng đen”, hỗ trợ hộ kinh doanh thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế – xã hội. ngày hội.
Thứ hai, hỗ trợ giải quyết vấn đề thiếu tài sản đảm bảo cho các hộ kinh doanh. Mặc dù các tổ chức tín dụng theo quy định không yêu cầu phải có tài sản đảm bảo cho bất kỳ khoản tín dụng nào (bao gồm cả cho vay, bảo lãnh), nhưng hầu như các hộ kinh doanh không thể tiếp cận vốn mà không có tài sản đảm bảo. Tài sản này hiện đang là trở ngại lớn đối với các chủ hộ khi muốn tiếp cận tín dụng chính thức, do có nhiều chủ hộ có số năm kinh doanh hạn chế, tài sản tích lũy không đủ nên khó đáp ứng các quy định về tài sản đảm bảo tại các tổ chức tín dụng hiện nay như : giá trị tài sản đảm bảo phải tương đương khoảng 75% tổng giá trị khoản vay.
Để tháo gỡ khó khăn này, theo khuyến nghị của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Chính phủ có thể xây dựng chính sách hỗ trợ các tổ chức tín dụng giảm chi phí và rủi ro cho vay hộ gia đình. gia đình như: giảm thuế đối với lợi nhuận từ cho vay tín chấp; yêu cầu các ngân hàng nhà nước, cơ quan quản lý thương mại, cơ quan thuế địa phương phối hợp chặt chẽ, nhiệt tình với các ngân hàng thương mại, để các ngân hàng có được thông tin xác thực, từ đó phê duyệt khoản vay dễ dàng hơn mà không cần thế chấp; có chính sách khuyến khích nhận tài sản hình thành trong tương lai hoặc tài sản vô hình như tài sản trí tuệ, bằng sáng chế, v.v.
Cùng với đó, hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt cho các hộ kinh doanh. Hiện nay, việc thanh toán điện tử không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, nguyên nhân chính là sự bất tiện trong thanh toán khi nhiều hàng hóa, dịch vụ không chấp nhận hình thức thanh toán này, điển hình là các quán ăn, cửa hàng tạp hóa ven đường … duy trì hoạt động là yếu tố chính khiến các chủ hộ này e ngại trong việc lắp đặt hệ thống thanh toán thẻ. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ để giảm chi phí, có chế độ ưu đãi cho các chủ hộ. Việc đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt sẽ là một bước tiến lớn trong việc minh bạch hóa các khoản thu chi, giúp việc kê khai và kiểm soát nguồn thu trở nên dễ dàng hơn. Các tổ chức tín dụng cũng có thể tận dụng các nguồn lực này để rà soát tín dụng một cách nhanh chóng và chính xác, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho các hộ gia đình nói riêng và các chủ thể trong nền kinh tế nói chung. .
Ngoài ra, cần nâng cao hiệu quả của gói hỗ trợ tín dụng. Nghị định số 31/2022 / NĐ-CP vừa được ban hành là một chính sách có quy mô lớn, đối tượng được hưởng chính sách này rất đa dạng và phong phú, được kỳ vọng sẽ tạo ra nhiều tác động tích cực cho sự gia tăng dân số. lãnh đạo các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, giúp các đối tượng này mạnh dạn hơn trong thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, góp phần vào quá trình phục hồi kinh tế.
Để thực hiện hiệu quả chính sách và đảm bảo các hộ kinh doanh nói riêng và các đối tượng thụ hưởng có thể tiếp cận được nguồn vốn này, thời gian tới, các bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng thương mại. hướng dẫn, giải đáp kịp thời những thắc mắc về điều kiện, đối tượng chính sách và các thủ tục liên quan. Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp với các cơ quan truyền thông để thông tin, truyền thông về chính sách hỗ trợ lãi suất, giúp các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh sớm hiểu và tiếp cận thông tin. về chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng thương mại.