Giúp doanh nghiệp thích ứng với những thay đổi trong tương lai

Rate this post


BNEWSChính phủ cần có giải pháp đột phá về tín dụng đối với doanh nghiệp, bởi vốn và tài chính là tiền đề và có vai trò quyết định để doanh nghiệp hoạt động và phát triển.

Doanh nghiệp Việt Nam tạo ra trên 60% GDP nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, khi giá các mặt hàng chiến lược và nguyên vật liệu tăng, tạo ra mặt bằng giá mới trong nền kinh tế đồng nghĩa với việc tăng chi phí sản xuất, giảm hiệu quả đầu tư, chậm thu hồi và giảm giá thành sản phẩm. tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Để hiểu rõ hơn về tác động của biến động giá cả các mặt hàng chiến lược đối với doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê xung quanh nội dung này.
PV: Mặc dù nền kinh tế đang nỗ lực phục hồi nhưng cộng đồng doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn. Đâu là nguyên nhân của khó khăn này?
Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm: Doanh nghiệp Việt Nam tạo ra trên 60% GDP nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. Nhận thức được tầm quan trọng của khu vực doanh nghiệp, Chính phủ luôn quan tâm cải cách thể chế, tháo gỡ khó khăn, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, kể từ khi đại dịch COVID-19 diễn ra, nền kinh tế thế giới và trong nước phải đương đầu với nhiều diễn biến khó lường, khó lường với tần suất ngày càng lớn khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp càng khó khăn hơn. kinh doanh gặp khó khăn.
Đại dịch và bất ổn địa chính trị gây ra sự gián đoạn chuỗi cung ứng, tác động đến doanh nghiệp theo nhiều cách như tiếp cận khách hàng, dòng tiền, tuyển dụng, gián đoạn chuỗi cung ứng, tăng thêm chi phí. ; trì hoãn, đình trệ, hủy bỏ các dự án đầu tư đang hoặc sẽ thực hiện. Hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp bị gián đoạn, ngừng hoạt động, thậm chí ngừng hoạt động dẫn đến giảm doanh thu, rủi ro khó thu hồi nợ, mất khả năng thanh toán.
Cùng với đó, những bất cập do đại dịch chưa được khắc phục, khủng hoảng Nga – Ukraine đã làm trầm trọng thêm các biến cố, đưa nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng ba chiều: năng lượng, lương thực và tài chính. . Theo đó, khủng hoảng năng lượng, cụ thể là khủng hoảng xăng dầu là mặt hàng chiến lược có vai trò quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng đối với nền kinh tế thế giới và của tất cả các quốc gia. Cuộc khủng hoảng 3 chiều này đã gây ra tình trạng đình trệ, thậm chí là đóng cửa của nhiều doanh nghiệp.
PV: Vậy, hậu quả của việc mất ổn định giá cả các mặt hàng chiến lược ảnh hưởng như thế nào đến các doanh nghiệp Việt Nam, thưa ông?
Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm: Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế quan trọng nhất, quyết định sự phát triển và thịnh vượng của đất nước. Với tác động của đợt đại dịch thứ 4, cùng với những hệ lụy của nền kinh tế thế giới đã ảnh hưởng đến khu vực doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.
Theo khảo sát xu hướng kinh doanh và tổng hợp ý kiến ​​của các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng, doanh nghiệp Việt Nam hiện đang gặp phải 5 nhóm khó khăn. Đó là, giá xăng dầu, nguyên liệu đầu vào, chi phí logistics tăng; thiếu lao động; khó khăn về vốn; thiếu hụt các thành phần và các rào cản pháp lý.
Chỉ số giá nguyên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất và chỉ số giá dịch vụ vận tải tăng làm tăng chi phí sản xuất. Do đó, chỉ số giá sản xuất của nền kinh tế sẽ tăng trong những tháng cuối năm. Khi giá nguyên liệu đầu vào tăng 1% thì chỉ số giá sản xuất sẽ tăng 2,06%. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nỗ lực tiêu thụ và đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước, làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế.

Đối với nền kinh tế Việt Nam, xăng dầu là mặt hàng chiến lược và là chi phí đầu vào của hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh. Một số ngành có tỷ trọng chi phí xăng dầu trong tổng chi phí rất cao như: khai thác thủy sản 76,73%; giao thông vận tải 63,36%; khai thác than 45,18%; lâm sản 25,59%; sản xuất và phân phối điện 6,55%.
Bên cạnh đó, xăng dầu cũng chiếm 1,5% mức tiêu dùng cuối cùng của các hộ gia đình. Khi giá xăng dầu tăng 10%, lạm phát tăng 0,36 điểm phần trăm và GDP giảm 0,5%.
Vì vậy, khi giá các mặt hàng chiến lược tăng thì giá nguyên vật liệu sẽ tăng, tạo ra mặt bằng giá mới trong nền kinh tế. Điều này đồng nghĩa với việc tăng chi phí sản xuất; giảm hiệu quả đầu tư, làm chậm quá trình phục hồi và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
PV: Hiện nay, hoạt động của thị trường tiền tệ chưa “bắt nhịp” với thị trường hàng hóa nên các doanh nghiệp phải đi vay lẫn nhau. Xin ông cho biết khó khăn về vốn hiện nay là gì?
Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm: Theo khảo sát xu hướng kinh doanh, có tới 31,8% doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến, chế tạo gặp khó khăn về tài chính; 48% doanh nghiệp nợ nhau và trả nợ đúng hạn; 21,4% doanh nghiệp vay vốn với lãi suất cao; 4% doanh nghiệp không được vay vốn.
Trong tổng số hơn 850 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, với nguồn vốn duy nhất đến từ hệ thống ngân hàng. Từ tháng 8/2022, một số ngân hàng tăng lãi suất cho vay, doanh nghiệp phải trả thêm 1,7% khi vay vốn, nhiều doanh nghiệp chậm thanh toán. Thực trạng này phần nào phản ánh việc doanh nghiệp khó tiếp cận vốn.
Hiện tại, áp lực tài chính đối với khu vực doanh nghiệp giai đoạn sau COVID-19 là rất lớn, cần sự can thiệp của Chính phủ để khơi thông nguồn vốn cho doanh nghiệp.
PV: Bên cạnh khó khăn về vốn, theo ông, môi trường pháp lý hiện nay còn gây ra những bất cập gì cho doanh nghiệp?
Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm: Chính phủ đã thực hiện ba đột phá chiến lược: hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển; phát triển nguồn nhân lực; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, môi trường đầu tư kinh doanh vẫn chưa thực sự thông thoáng, dư địa cải cách còn rất lớn.
Nhiều địa phương và doanh nghiệp phản ánh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn của nhiều quy định pháp luật. Ví dụ điển hình nhất là sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các đạo luật, giữa luật chung và luật chuyên ngành, giữa văn bản hướng dẫn này với văn bản hướng dẫn khác.
Cụ thể, khi làm thủ tục, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính trùng lặp, mất nhiều thời gian đi lại, nộp nhiều hồ sơ giống nhau đến các cơ quan Nhà nước khác nhau. Chi phí giao dịch rất đắt. Trong quá trình thực hiện, doanh nghiệp phải tiếp nhiều đoàn kiểm tra từ nhiều cơ quan khác nhau với cùng một nội dung.
Không chỉ các dự án luôn bị chậm tiến độ, phát sinh chi phí mà rủi ro lớn nhất đối với doanh nghiệp là nguy cơ vi phạm pháp luật. Nhiều trường hợp doanh nghiệp không biết tuân theo quy định nào, làm cái này lại vi phạm quy định kia.
Theo khảo sát xu hướng kinh doanh và tổng hợp ý kiến ​​của các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng, 8,3% doanh nghiệp được khảo sát đánh giá chính sách, pháp luật của Nhà nước có tác động không thuận lợi đến hoạt động của doanh nghiệp. của doanh nghiệp; 18,2% doanh nghiệp xây dựng cho rằng sự hỗ trợ của hệ thống hành chính nhà nước đối với doanh nghiệp khó khăn hơn.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật khiến các cơ quan thực thi chính sách lúng túng, bị động khi giao dịch với doanh nghiệp. Tâm lý ngại rủi ro, sợ sai rất phổ biến trong bộ máy nhà nước xuất phát từ tình trạng luật chồng chéo, mâu thuẫn.
Nhìn chung, những mâu thuẫn, chồng chéo này đã hạn chế tác dụng tích cực trong quá trình thực thi pháp luật; tạo rào cản trong quá trình triển khai thực tế, phát sinh chi phí lớn, rủi ro cao cho doanh nghiệp và nhà đầu tư. Xung đột này đã dẫn đến các thực hành thực thi rất khác nhau giữa các nơi.

PV: Vậy đâu là giải pháp để tháo gỡ những rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp, thưa ông?
Chuyên gia Nguyễn Bích Lâm: Theo tôi, trước mắt Chính phủ cần khẳng định và thực hiện quan điểm hỗ trợ tối đa doanh nghiệp phát triển; coi việc tháo gỡ rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Từ đó, doanh nghiệp có đủ điều kiện để chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững.
Chính phủ cũng khẩn trương xây dựng chính sách và chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để thực hiện các giải pháp lâu dài; hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng với những biến động trong tương lai. Đồng thời thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đón đầu các xu hướng kinh doanh và thị trường mới để có thể vươn lên bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới.
Bên cạnh đó, Chính phủ đẩy mạnh thực hiện chương trình khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là mở gói hỗ trợ lãi suất tín dụng 2%. Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại phân bổ các khoản tín dụng mới bổ sung vào các lĩnh vực phù hợp để các doanh nghiệp có đủ vốn cho sản xuất và lưu thông hàng hoá của nền kinh tế.
Cùng với đó, Chính phủ có giải pháp đột phá về tín dụng cho doanh nghiệp. Vì vốn và tài chính là tiền đề và đóng vai trò quyết định để doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Việc đảm bảo nguồn vốn và tài chính cho doanh nghiệp từ nay đến cuối năm và những năm tiếp theo là rất quan trọng.
Chính phủ cũng chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khắc phục tình trạng gián đoạn nguồn cung, đa dạng hóa đối tác, nhà cung cấp nguyên, nhiên, phụ liệu, linh kiện đầu vào để đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng thị trường nội địa, v.v.
Doanh nghiệp chủ động nắm bắt và tận dụng từng cơ hội, có kế hoạch thích ứng với những biến động trong tương lai; bắt kịp xu hướng kinh doanh mới; đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, tăng cường liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp sẵn sàng chuyển giao kỹ thuật tiên tiến, tri thức mới, công nghệ hiện đại trên thế giới; quan tâm đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và giữ chân người lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động để thích ứng và bắt kịp xu thế mới của thị trường.
PV: Cảm ơn ngài!

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *