Kinh doanh nước sạch, không chỉ có màu hồng?

Rate this post

Trong ngành nước, người ta thường chia các doanh nghiệp thành hai nhóm. Một là các công ty phân phối nước (thường là các doanh nghiệp có mạng lưới phân phối nước sạch thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quản lý), hai là các công ty có nhà máy nước hoặc là công ty nước sạch.

    Kinh doanh nước sạch, không chỉ có màu hồng?  - Ảnh 1.

Đặc thù của ngành nước là manh mún và không liên tục, tức là các nhà máy và thị trường cung cấp chỉ nằm trong một khu vực địa lý nhất định, dẫn đến việc mỗi địa phương có những nhà cung cấp khác nhau. Có thể là công khai hoặc riêng tư.

Trong ngành nước, chưa có nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp cả về bề rộng lẫn bề sâu. Có thể kể đến một số cái tên tiêu biểu trong ngành nước đã đầu tư hàng loạt nhà máy lớn từ Bắc vào Nam như Aqua One Group, REE Corp, DNP Holding….

Trong đó, REE và DNP đã niêm yết trên sàn chứng khoán nên thông tin về kết quả kinh doanh được công khai và dễ tiếp cận hơn.

“Gã khổng lồ” ngành nước – REE

REE thực sự là “đại gia” trong ngành khi nắm cổ phần tại nhiều công ty nước sạch như Công ty cổ phần Đầu tư nước sạch Sông Đà, Công ty cổ phần Cấp nước Nhà Bè, Công ty cổ phần cấp nước Thủ Đức,…

REE tham gia vào ngành Nước từ năm 2004 khi nhận thấy tiềm năng to lớn từ quá trình đô thị hóa nhanh chóng tại TP.HCM vào đầu những năm 20 của thế kỷ 21 với khoản đầu tư đầu tiên vào Nhà máy nước BOO Thủ Đức. – Nhà máy xử lý nước công suất thiết kế 300.000 m3 / ngày đêm.

Hiện tại, mảng Nước của Tập đoàn đang được tiếp tục phát triển và quản lý bởi Công ty TNHH Nước sạch REE (REE Water) – công ty con 100% vốn của REE.

    Kinh doanh nước sạch, không chỉ có màu hồng?  - Ảnh 2.

Nguồn: BC thường niên 2021 REE

Từ năm 2004 đến năm 2021, REE đã đẩy mạnh đầu tư vào mảng Nước với danh mục bao gồm 4 nhà máy sản xuất nước, 3 công ty phân phối nước, 1 công ty nước chuỗi và 1 công ty hoạt động trong lĩnh vực tư vấn công. công nghệ và xây dựng, cải tạo công trình nhà máy nước (Công ty TNHH TK Công).

    Kinh doanh nước sạch, không chỉ có màu hồng?  - Ảnh 3.

Nguồn: BC thường niên 2021 REE

Số liệu trên báo cáo tài chính hợp nhất qua các năm của REE cho thấy hiệu quả kinh doanh nước sạch.

Cụ thể, cùng với mảng điện, mảng nước sạch đã mang lại cho REE lợi nhuận lớn trong nhiều năm qua. Lợi nhuận gộp từ mảng điện nước những năm trước chỉ đóng góp khoảng 20% ​​đến 27% tổng lợi nhuận gộp hợp nhất của công ty. Năm 2021, con số này đã tăng lên 58% và thậm chí là 80% trong 6 tháng đầu năm 2022.

    Kinh doanh nước sạch, không chỉ có màu hồng?  - Ảnh 4.

Tóm tắt từ báo cáo tài chính hợp nhất của REE.

Tỷ suất lợi nhuận gộp mảng cơ sở hạ tầng điện nước của REE cũng rất khả quan khi liên tục ở mức cao trên 30%, thậm chí đạt gần 44% vào năm 2021 và lên tới 61% vào nửa đầu năm 2022.

Công ty Cổ phần Nhựa Đồng Nai (DNP)

Một đại diện sáng giá đáng được nhắc đến trong ngành nước là Công ty Cổ phần Nhựa Đồng Nai (DNP).

Theo thông tin trên báo cáo thường niên 2021 của Nhựa Đồng Nai, DNP giới thiệu DNP là nhà đầu tư tư nhân số 1 trong ngành nước tại Việt Nam. Hiện DNP đang cung cấp nước tại 11 tỉnh thành, thoát nước và vệ sinh môi trường tại 5 tỉnh.

Năm 2017, DNP Water là công ty con do DNP nắm giữ 70% cổ phần, chuyên đầu tư kinh doanh trong mảng nước sạch.

DNP Water hiện sở hữu trực tiếp và gián tiếp 13 công ty hoạt động đầu tư kinh doanh nước sạch với tổng công suất trên 1 triệu m3 ngày đêm như Nhà máy nước sạch Bắc Giang, Nhà máy nước sạch Nhị Thành (Long An), Nước sạch Hà Nội. 3 Công ty Cổ phần Sản xuất và Thương mại, Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Bình Thuận, Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Tây Ninh,….

Doanh thu nước sạch của DNP Water năm 2021 là 1.012 tỷ đồng, chỉ sau 5 năm, doanh thu từ mảng nước sạch và vệ sinh đã tăng gấp 10 lần so với năm 2017.

    Kinh doanh nước sạch, không chỉ có màu hồng?  - Ảnh 5.

DNP. Báo cáo hàng năm

Bức tranh không chỉ có tông màu hồng nhuận

Trong khi cả REE và DNP đều được hưởng lợi nhuận cao từ hoạt động kinh doanh nước sạch và thể hiện tham vọng tiếp tục mở rộng trong lĩnh vực nước, họ cũng như những người khác trong ngành phải đối mặt với nhiều thách thức.

Như đã nói ở phần đầu, các doanh nghiệp cấp nước được chia thành 2 nhóm: Nhóm 1 cung cấp và Nhóm 2 sản xuất (nhà máy nước sạch).

Nếu hiệu quả hoạt động của các công ty nhóm 1 phụ thuộc vào tỷ lệ thất thoát nước cũng như mật độ dân cư trong khu vực phân bố thì hiệu quả hoạt động của nhóm công ty 2 phụ thuộc vào chất lượng nước mặt khai thác.

Tất nhiên, không loại trừ các yếu tố như giá bán, ảnh hưởng của dịch bệnh…. Nhưng hai yếu tố này đóng vai trò rất lớn trong việc quyết định tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.

Chất lượng mặt nước khai thác được DNP Water đánh giá là rủi ro lớn nhất trong ngành nước, bởi trước tác động của ô nhiễm nguồn nước và biến đổi khí hậu, nguồn nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất chịu áp lực giảm sút lớn cả về chất lượng và số lượng. và khối lượng.

Nước bị ô nhiễm đẩy chi phí xử lý thành “nước sạch”, làm tăng chi phí sản xuất.

Theo Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Cộng đồng, khoảng 70% lượng nước thải từ các khu công nghiệp không được xử lý mà thải trực tiếp ra môi trường. Đặc biệt là các đoạn sông chảy qua các khu đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng như lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy, lưu vực sông Cầu, lưu vực sông Đồng Nai … Tỷ lệ nước thải được xử lý còn khá thấp.

Theo UNICEF, ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam được xếp vào top 5 thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Philippines, Indonesia và Thái Lan.

Tác động của biến đổi khí hậu là hạn hán, lũ lụt, bão, nước biển dâng đều ảnh hưởng đến nguồn nước. Nước biển dâng và xâm nhập mặn làm cho các nguồn cung cấp nước bị nhiễm mặn như ở các vùng Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ và Duyên hải miền Trung.

Do ảnh hưởng của bão và lũ lụt, các vùng trũng bị ngập úng, ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm. Hạn mặn dẫn đến cạn kiệt nguồn nước và ô nhiễm sông, suối, kênh, rạch như ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.

Báo cáo của Cục Quản lý tài nguyên nước đầu năm 2020 cho thấy chất lượng nước mặt đầu nguồn các lưu vực sông của Việt Nam vẫn tương đối tốt. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm, suy giảm chất lượng nước vẫn tiếp tục diễn ra ở nhiều đoạn, tập trung ở vùng trung lưu và hạ lưu.

Chất lượng nước thô kém làm tăng chi phí xử lý nước và đòi hỏi công nghệ xử lý hiện đại hơn. Đơn giá đầu tư của các nhà máy, công trình cấp nước ở những vùng cấp nước an toàn có thể cao hơn do yêu cầu chiều dài đường ống dài hơn, giải pháp đầu tư nhiều hơn …

DNP cho rằng, khi giá trị đầu tư cho các công trình cấp nước còn cao, thời gian hoàn vốn lâu, trong khi giá nước do chính quyền địa phương quyết định thì nguy cơ về trữ lượng và chất lượng nước suy giảm. , ảnh hưởng đến hiệu quả và tính liên tục của các nhà máy nước.

Về tỷ lệ thất thoát nước, Tỷ lệ thất thoát nước của Việt Nam được đánh giá là còn cao, trung bình khoảng 21% – 22% so với tỷ lệ trung bình của các nước phát triển (15%), một phần do hệ thống phân phối nước sạch khá cũ. cẩn thận.

Tuy nhiên, với cả REE và DNP, điểm chung là tỷ lệ thất thoát nước bình quân thấp hơn nhiều so với tỷ lệ thất thoát bình quân của ngành nước Việt Nam. Với DNP tỷ lệ này năm 2021 là 11,2%, còn REE dao động không quá 17%.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *