Tín dụng cuối tháng 9 đã tăng 11%, room tín dụng ổn định 14%

Rate this post

Tín dụng cuối tháng 9 đã tăng 11%, room tín dụng ổn định 14%

Ngân hàng Nhà nước khẳng định, nếu không kiểm soát được việc mở rộng tín dụng, giảm lãi suất, lạm phát thì chỉ có một số doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn được hưởng lợi, còn phần lớn người dân sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.



t
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng.

Đừng “đổ” hết vào phòng tín dụng

Tại Hội nghị Truyền thông và Tín dụng mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đã thông tin thêm về tăng trưởng tín dụng – một trong những vấn đề được thị trường quan tâm nhất hiện nay.

Định hướng được Ngân hàng Nhà nước đưa ra từ đầu năm nay là tăng tín dụng 14%, điều chỉnh theo diễn biến thực tế. Đến ngày 28/9/2022, tăng trưởng tín dụng đã đạt 10,96%, nhu cầu tín dụng sẽ tiếp tục tăng trong những tháng cuối năm.

“Vừa phù hợp với mục tiêu tín dụng, vừa kiểm soát tác động của lạm phát, kiểm soát kỳ vọng và thực hiện nhiệm vụ ổn định tỷ giá hối đoái, tất cả các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước phải đảm bảo tính nhất quán.

Cuối, Ngân hàng Nhà nước lãi suất phải được điều chỉnh. Trước, Ngân hàng Nhà nước chịu nhiều áp lực điều chỉnh nới room tín dụng lên 15-16% nhưng thực tế cho thấy, sự kiên định điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước là đúng và trúng, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao ”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định.

Theo người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước, điều hành tín dụng là công cụ rất quan trọng để tập trung kiểm soát lạm phát cả năm nay và năm sau. Có thể khẳng định, Ngân hàng Nhà nước điều hành tốt chính sách tín dụng đối với nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường kinh doanh và đặc biệt là “giữ chân” dòng vốn đầu tư nước ngoài. Qua đó cho thấy Chính phủ, các bộ, ngành và ngân hàng trung ương đã có những giải pháp và cách thức quản lý ủy thác.

Dù trong hoàn cảnh nào, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định: Ngân hàng Nhà nước luôn đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống là ưu tiên hàng đầu. Bởi nếu không kiểm soát được lạm phát, nới rộng tín dụng, giảm lãi suất thì chỉ có một số doanh nghiệp tiếp cận được vốn, trong khi lạm phát ảnh hưởng đến người dân, nhất là những người còn khó khăn thì Chính phủ sẽ phải tăng nguồn lực hỗ trợ, tạo áp lực lên ngân sách…

Theo nguồn của Báo đầu tư – baodautu.vnHiện tỷ lệ cho vay / huy động của một số ngân hàng đã chạm mức trần cho phép, do tín dụng từ đầu năm đến nay tăng mạnh nhưng huy động vốn tăng chậm. Nếu nới room tín dụng, các ngân hàng sẽ phải chạy đua tăng lãi suất huy động để cho vay.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đề nghị, Ngân hàng Nhà nước các chi nhánh tỉnh, thành phố, tổ chức tín dụng tăng cường kết nối giữa ngân hàng và doanh nghiệp, tổ chức hội nghị giải thích rõ cho doanh nghiệp hiểu, nếu kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ không ổn định, lãi suất, tỷ giá thì doanh nghiệp sẽ là người gặp khó khăn khi thị trường biến động.

Thống đốc cũng yêu cầu, các ngân hàng phải giải trình rõ ràng với những doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn hoặc có tình trạng cho vay nặng lãi ngân hàng không đạt tỷ lệ an toàn, không nên “dồn” hết vào room tín dụng…

Trong một báo cáo gần đây gửi Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước Nó cũng giải thích một số nguyên nhân khiến doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vay.

Thứ nhất, doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi đợt dịch Covid-19 kéo dài khiến kết quả kinh doanh sa sút, số lượng lớn doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, tiềm ẩn nợ xấu hệ thống.

Thứ hai, một kế hoạch phục hồi sản xuất kinh doanh mới của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường và chính sách phát triển thị trường của các ngành khác nhau, nhưng nó không bền vững.

Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng càng khó hơn do nguyên nhân nội tại của doanh nghiệp vừa và nhỏ (tài sản thế chấp giá trị thấp, hoạt động không minh bạch). hoạt động kinh doanh hạn chế, trình độ quản lý yếu kém, v.v.); Cơ chế hỗ trợ tiếp cận vốn thông qua bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng và Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thời gian qua chưa được như mong muốn.

Nhiều áp lực đặt lên vai chính sách tiền tệ

Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, tình hình hiện nay vô cùng khó khăn, phức tạp khi kinh tế thế giới có nhiều diễn biến khó lường, chưa từng có; chính phủ và ngân hàng trung ương các nước triển khai nhiều gói hỗ trợ kinh tế; Sau khi kiểm soát cơ bản dịch Covid, các nước chuyển sang trạng thái đối mặt với nguy cơ lạm phát.

Thực tế, xu hướng lạm phát đang diễn ra trên toàn cầu, đặc biệt là các nền kinh tế lớn như Mỹ, Anh, Đức… đều có tỷ lệ lạm phát cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Các ngân hàng trung ương trên thế giới đang phải “gồng mình” với khó khăn này.

Ví dụ, Fed đã điều chỉnh mạnh lãi suất và liên tục tăng lãi suất 0,75% trong thời gian gần đây. Đáng chú ý, Fed tuyên bố đến năm 2023 có thể tăng lãi suất lên tới 4,6%, trước khi lạm phát trong tầm kiểm soát. Các ngân hàng trung ương của các quốc gia khác phản ứng rất mạnh với biến động lạm phát và cũng phải tăng lãi suất rất mạnh, khoảng 200 lần tăng lãi suất cao.

Trong khi đó, theo Thống đốc, Việt Nam có độ mở kinh tế rất lớn, nhu cầu vốn tín dụng phụ thuộc vào ngân hàng nhiều nên vấn đề tín dụng, lãi suất thường phức tạp … Hoạt động kinh tế vĩ mô, trong đó có việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, là vô cùng khó khăn và phức tạp. Những biến động trên đã ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp và người dân đồng thời ảnh hưởng đến an toàn hoạt động. của hệ thống ngân hàng.

“Vì thế, Ngân hàng Nhà nước Điều hành chính sách tiền tệ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và ổn định thị trường ngoại hối. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định.

Báo cáo với Ủy ban Kinh tế, Ngân hàng Nhà nước bày tỏ lo ngại với lạm phát, lạm phát so với cùng kỳ cuối năm 2022 dự kiến ​​vượt 4%, đặt ra thách thức đối với nhiệm vụ kiểm soát lạm phát ngay từ bây giờ. từ đầu năm 2023.

Áp lực về vốn tín dụng ngân hàng gia tăng trong bối cảnh nền kinh tế cần vốn để phục hồi nhưng các nguồn vốn khác lại không thuận lợi.

Cụ thể, thị trường vốn (thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán) còn một số tồn tại và phát triển chưa tương xứng với vai trò cung ứng vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế; So với cùng kỳ năm 2021, lượng đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài và lượng kiều hối có xu hướng giảm.

Tỷ lệ tín dụng / GDP của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2020, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hệ thống tài chính. Các tổ chức quốc tế (IMF, WB), các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đều cảnh báo về tỷ lệ này của Việt Nam.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *