Ngân hàng tăng mạnh vốn điều lệ, doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận tín dụng

Rate this post
Nợ xấu nội bảng của hệ thống là 1,7%.  Ảnh: ST
Nợ xấu nội bảng của hệ thống ngân hàng đến cuối tháng 7/2022 là 1,7%. Ảnh: ST

Trình bày kế hoạch huy động vốn cho “Big 4”

Trong báo cáo vừa gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, NHNN cho biết thời gian qua, NHNN đã chỉ đạo 4 ngân hàng thương mại nhà nước thực hiện phương án bổ sung vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính.

Theo đó, đến cuối tháng 7/2022, vốn điều lệ của nhóm “Big 4” là: Agribank, Vietcombank, VietinBank, BIDV đạt 180,3 nghìn tỷ đồng; tổng tài sản đạt 7.060,3 nghìn tỷ đồng; thị trường huy động vốn 1 đạt 5.618,2 nghìn tỷ đồng; dư nợ thị trường 1 đạt 5.151,4 nghìn tỷ đồng.

Agribank được cấp thêm 3.500 tỷ đồng vốn điều lệ. VietinBank trả cổ tức bằng cổ phiếu tăng vốn điều lệ thêm 10.824 tỷ đồng sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án. Vietcombank đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư bổ sung vốn nhà nước thông qua phát hành cổ phiếu trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại năm 2019, tổng vốn điều lệ tăng thêm là 10,237 tỷ đồng. BIDV đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư bổ sung vốn nhà nước thông qua việc chia cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại giai đoạn 2018-2020, tổng vốn điều lệ tăng thêm là 10.365 tỷ đồng.

Vì vậy, hiện Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xem xét, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án tăng vốn điều lệ cho Agribank từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Về việc tăng vốn điều lệ của BIDV, Vietcombank, VietinBank, NHNN cho biết đã có văn bản gửi Bộ Tài chính xem xét, cho ý kiến ​​về việc phân chia lợi nhuận năm 2021 để làm cơ sở trình cấp có thẩm quyền xem xét. xem xét tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng này.

Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho biết, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại nhà nước tăng chậm hơn nhiều so với ngân hàng thương mại cổ phần, ảnh hưởng đến vai trò dẫn dắt thị trường. của toàn hệ thống.

Về nhóm ngân hàng thương mại cổ phần, theo NHNN, các ngân hàng thuộc nhóm này cơ bản thực hiện theo phương án đã được phê duyệt, tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện các mặt tài chính, quản trị, xử lý nợ xấu, tăng cường các biện pháp kiểm soát để nâng cao chất lượng tín dụng. , hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh, đồng thời nâng cao tính minh bạch trong hoạt động.

Năm 2022, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản chấp thuận tăng vốn điều lệ cho 15 ngân hàng thương mại cổ phần, trong đó, việc tăng vốn điều lệ của các ngân hàng này chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng. lợi nhuận giữ lại và dự trữ). Kết quả, đến cuối tháng 7/2022, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần đạt 416,9 nghìn tỷ đồng; tổng tài sản đạt 7.488,2 nghìn tỷ đồng; huy động vốn từ thị trường 1 đạt 5.513,4 nghìn tỷ đồng; dư nợ thị trường 1 đạt 4.686,6 nghìn tỷ đồng.

Đối với các ngân hàng yếu kém, ngân hàng mua bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước đã và đang chỉ đạo các ngân hàng này khẩn trương hoàn thiện phương án tái cơ cấu, tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan triển khai phương án tái cơ cấu. thực hiện các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

Doanh nghiệp còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn

Về chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho biết, từ năm 2012 đến hết tháng 7/2022, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng 1.449,8 nghìn tỷ đồng nợ. xấu; Riêng 7 tháng đầu năm 2022, khoảng 88,1 nghìn tỷ đồng nợ xấu đã được xử lý.

Đến cuối tháng 7/2022, tỷ lệ nợ xấu nội bảng duy trì ở mức an toàn 1,7%; tỷ lệ nợ xấu, nợ chưa xử lý được đã bán cho VAMC và nợ tiềm ẩn khó đòi của hệ thống các tổ chức tín dụng là 5,41% (cuối năm 2021 là 6,3%).

Trong đó, các tổ chức tín dụng tự xử lý ở mức cao (chiếm 82,6% tổng số nợ xấu được xử lý). Việc tự xử lý nợ xấu chủ yếu được thực hiện thông qua việc sử dụng dự phòng rủi ro và trả nợ của khách hàng. Riêng về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/7/2022, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 399,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu.

Ngoài ra, đến cuối tháng 6 năm 2022, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài hạn của toàn hệ thống tổ chức tín dụng là 25,08%. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tổ chức tín dụng cơ bản đáp ứng quy định này, trừ một số tổ chức tín dụng yếu kém và được kiểm soát đặc biệt.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng dù được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ của ngành ngân hàng.

Nguyên nhân là do các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 kéo dài khiến kết quả kinh doanh sa sút, hàng loạt doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu cho hệ thống; Các phương án kinh doanh mới để khôi phục sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường, chính sách phát triển thị trường của các ngành nhưng chưa bền vững.

Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng càng khó hơn do những nguyên nhân nội tại của doanh nghiệp nhỏ và vừa như: tài sản thế chấp giá trị thấp, ngân hàng không minh bạch. hoạt động kinh doanh hạn chế, trình độ quản lý yếu kém…; Cơ chế hỗ trợ tiếp cận vốn thông qua bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng và Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thời gian qua chưa đáp ứng được kỳ vọng.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *